Hỏi:
Tôi muốn hỏi "Thuốc vườn nhà" về tác dụng của yến sào. Nếu dùng nó thì cần dùng kèm với thuốc gì và nên kiêng kỵ cái gì? Xin chân thành cảm ơn.
Nguyễn Đề, Hà Tĩnh
Đáp:
Chim yến
"Yến sào" có nghĩa là "tổ chim yến" (Nidus Collocaliae). Chữ "sào" ở đây có nghĩa là ổ, hang, sào huyệt, ... Chim yến hơi giống con chim én (một số nơi cũng gọi là yến), nhưng lông không đẹp, hót không hay, mình nhỏ, cánh dài và nhọn, đuôi ngắn, mỏ cong, lông ở lưng và bụng màu xám, lông đuôi và cánh đen huyền (do đó còn gọi là "huyền điểu"). Chim én tuy thuộc cùng một họ, nhưng khác loài và không cho yến, vì không làm tổ bằng nước dãi như chim yến nói trên.
Chim yến là tổ bằng nước dãi (nước bọt), do cặp tuyến dưới lưỡi tiết ra, chứ không làm tổ bằng cỏ khô, rác, cành cây, ... như những loài chim khác.
Hàng năm, cứ tới tháng 12 dương lịch, chim yến bắt đầu xây tổ, tới tháng 3-5 năm sau mới xong. Chim yến có thể làm tổ tới 4 lần, nhưng càng về sau tổ càng nhỏ dần, tổ đầu tiên có thể nặng tới 18-20g, về sau chỉ nặng 5-10g. Sợi yến lúc mới nhả có màu trắng, phơn phớt hồng, sau một thời gian biến thành màu trắng đục, do tác dụng của không khí. Mỗi sợi yến dài khoảng 35-45cm, dày khoảng 2,5mm, được chim yến quẹt đi quẹt lại trên vách đá, theo những vành tròn xoáy trôn ốc, thành tổ.
Ở Việt Nam ta, chim yến thường làm tổ trên các vách núi đá lởm chởm, ở những nơi hiểm hóc, trên đỉnh núi cao, trong các hang động, ở biển như Vịnh Hạ Long, Đồng Hới, Quy Nhơn, Cù Lao Chàm, Nha Trang, Côn Đảo, Phú Quốc, ...
Yến sào được khai thác từ tổ của nhiều loài yến khác nhau, đều thuộc họ Vũ yến (Apodidae), như "yến đảo" (Giava Collocalia thunbergi), "yến lưng màu tro" (Collocalia unicolor Gordon), "yến đảo hải nam" (Collocalia linchi affinis Bearan), "yến sào Collocalia francica vestida", ...
Khoảng tháng 4, khi yến làm xong tổ, có thể khai thác yến sào đợt đầu tiên. Yến mất tổ, sẽ làm tỏ mới. Tới tháng 7-8, sau khi chim đẻ, ấp trứng, chim non đã cứng cáp, có thể khai thác yến sào đợt thứ hai. Nếu khai thác không đúng lúc, khi tổ đang có trứng, hoặc chim con còn non, sẽ làm bầy chim bị cạn kiệt.
Tùy theo chất lượng, yến sào được chia thành nhiều loại khác nhau, như "bạch yến" (còn gọi là quan yến), "mao yến", "hồng yến" (yến bã trầu), "huyết yến", "thiên yến", "địa yến", ...
Yến sào đã đi vào văn hóa ẩm thực từ nhiều thế kỷ trước. Thời xưa, yến sào chỉ dành cho vua chúa. Khi trong cung đình mở tiệc to, mới có món yến. Vì vậy chữ yến thường đi kèm chữ tiệc, thành ra "yến tiệc", chỉ bữa ăn linh đình, thịnh soạn.
Yến sào là món ăn có giá trị dinh dưỡng rất cao. Lượng protein trong yến sào chiếm tới khoảng 40%, với nhiều loại acid amin thiết yếu, ở dạng dễ hấp thụ; hàm lượng chất đường cũng khá cao, nhưng hàm lượng mỡ lại rất thấp, còn chứa nhiều nguyên tố đa lượng, vi lượng có hoạt tính sinh học cao. Đặc biệt trong yến sào có acid sialic - một loại acid có trong nước bọt, có tác dụng kích thích hoạt động thần kinh và xúc tiến quá trình sinh trưởng của tế bào.
Yến sào còn là vị thuốc quý, được sử dụng trong Đông y và dân gian từ lâu đời. Thường được sử dụng với một số tên gọi khác nhau, như "yến oa", "yến oa thái", "yến thái", "quan yến", "kim ty yến", ...
Theo Đông y:
- Yến sào có vị ngọt, tính bình, không độc; vào 3 kinh Phế, Vị và Thận. Có tác dụng tư âm nhuận phế (bổ âm, nhuận phổi), bổ tỳ ích khí (tăng cường tiêu hóa, tăng lực). Chủ trị các chứng hư tổn (cơ thể suy yếu), ho, ho ra máu, hen suyễn, nôn ra máu, đau dạ dày, lỵ lâu ngày, ... Thường được dùng làm thức ăn hay thuốc bổ dưỡng cho những người mới ốm dậy, cơ thể gầy yếu, người cao tuổi, trẻ nhỏ suy dinh dưỡng, phụ nữ sau khi đẻ hoặc bị băng huyết; chữa một số bệnh hô hấp và tiêu hóa.
- Chú ý: Để bồi bổ, cần sử dụng với liều nhỏ (từ 5-10g), trong thời gian dài; Đông y gọi đó là "hoãn bổ", bổ từ từ.
- Kiêng kỵ: Không dùng cho những người mắc các chứng "phế vị hư hàn" (phế, vị suy nhược thể hư hàn), "đàm thấp đình trệ" và đang có "biểu tà" (đang mắc các chứng bệnh ngoại cảm).
Yến sào có thể sử dụng riêng, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác theo một số cách tương tối phổ biến như sau:
(1) Canh nhân sâm yến sào: Dùng yến sào 8g, nhân sâm 4g; cho vào bát gốm, thêm chút nước, hấp cách thủy, chia ra ăn dần. Có tác dụng bổ tỳ vị, tăng cường chức năng tiêu hóa.
(2) Canh sữa bò yến sào: Yến sào 6g, hấp cách thủy; sữa bò 500g, đun sôi; 2 thứ trộn đều, ăn như canh. Có tác dụng ích tỳ hòa vị, nhuận táo. Dùng chữa vị khí hư nhược, vị âm bất túc, dẫn tới những chứng trạng như khó nuốt, nghẹn, ăn vào nôn ngược trở lại, đại tiện phân táo như phân dê, ...
(3) Canh hoàng kỳ yến sào: Hoàng kỳ 20g, yến sào 5g; sắc uống, ngày 2 lần. Có tác dụng bổ nguyên khí, chữa chứng vã mồ hôi (tự hãn).
(4) Thu lê yến oa: Lê 2 trái, cắt một khoanh gần cuống để làm nắp, khoét bỏ lõi; yến sào 5g, đường phèn 5g, cùng nhồi vào ruột quả lê, đậy nắp lại, dùng tăm tre gim chặt; thêm nước, nấu chín; ngày ăn 1 lần vào sáng sớm. Có tác dụng tư âm nhuận phế, nhuận táo hóa đàm. Dùng chữa chứng "phế hư táo nhiệt", dẫn tới tình trạng đờm nghẽn tắc, gây khó thở, hen suyễn, ... ở người già.
(5) Ngân yến thang: Ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng) 6g, yến sào 3g, đường phèn 10g; mộc nhĩ và yến sào ngâm nước cho nở ra, sau cho vào nồi, thêm nước, nấu chín nhừ; cho đường phèn vào hòa tan, đun sôi lại là được; mỗi ngày ăn 1 lần vào buổi sáng. Có tác dụng tư âm nhuận phế. Dùng chữa chứng "âm hư phế táo" hoặc "phế lao khái thấu", dẫn tới các chứng trạng như khó thở, ho, đại tiện táo kết.
Lương y HƯ ĐAN
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.