Hỏi:
Tôi bị viêm mũi dị ứng đã lâu. Gần đây có người cho một đơn thuốc Bắc nói rằng rất hiệu nghiệm, nhưng trong đơn đó lại có một vị thuốc là "nga bất thực thảo" mà tôi không sao kiếm ra được. Tôi đã nhờ người quen tìm mua ở các hiệu thuốc Bắc ở Hà Nội và Hải Phòng đều không có bán. Rất mong "Thuốc vườn nhà" cho biết vị thuốc "nga bất thực thảo" có tác dụng gì, có thể tìm ở đâu hoặc có thể thay thế bằng một vị thuốc khác dễ kiếm hay không?
Bùi Đình Kín, Tân Lạc, Hoà Bình
Đáp:
Trong Đông y Trung Quốc, "nga bất thực thảo" là tên chính thức (chính danh) của thứ cây ở nước ta gọi là "cóc mẳn", tên khoa học là cây Centipeda minima (L.). "Nga bất thực thảo" có nghĩa là thứ cỏ mà con ngỗng không ăn (nga = con ngỗng, bất thực = không ăn, thảo=cỏ). Cây còn có rất nhiều tên khác như "cúc mẳn", "cúc ma", "cỏ the", "cây thuốc mộng", "cây trăm chân", "cóc ngồi" (Miền Nam), "thạch hồ tuy", "địa hồ tiêu", "cầu tử thảo", ...
Cần lưu ý là tại một số địa phương ở Trung Quốc, "nga bất thực thảo" còn được dùng để chỉ cây "tiểu vô tâm thái" và cây "lão thử cước tích", nhưng đó chỉ là "dị danh" (không phải tên chính thức). Căn cứ vào tác dụng chữa viêm mũi có thể khẳng định, "nga bất thực thảo" trong đơn thuốc của bạn là cây ở Việt Nam gọi là "cóc mẳn".
Cây cóc mẳn mọc hoang ở khắp những nơi ẩm thấp, thường thấy ở ruộng bỏ hoang, bờ ao, ven đường, ... Ngay trong thành phố Hà Nội, ở nhiều chân tường ẩm cũng thấy cây mọc nhiều. Cây chỉ được bán dùng làm thuốc ở một vài hàng lá, trong các cửa hàng Đông Nam dược rất ít khi có.
Bạn có thể tự đi kiếm cây cóc mẳn về dùng, dựa theo những đặc điểm sau: Cóc mẳn là một loại cỏ nhỏ, thân mềm, mọc bò lan, cành lòa xòa mọc sát mặt đất, phân rất nhiều cành, ở ngọn có lông trắng mịn, nhưng toàn thân trông nhẵn bóng. Lá đơn, mép có khía 1-3 răng cưa, mọc so le. Cụm hoa hình đầu, mọc ở nách lá, hoa cái gồm nhiều lớp, cánh hoa hình ống màu trắng, trên có răng cưa, tràng hoa hình chuông có 4 răng hình trứng rộng, màu hơi tím. Quả 4 cạnh, trên cạnh có lông mịn nhỏ. Mùa hoa vào các tháng 2-5; mùa quả vào các tháng 4-7. Để dùng làm thuốc, thường thu hái toàn bộ cây cả rễ, dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Theo Đông y: Cóc mẳn có vị cay, tính ấm, vào kinh Thủ thái âm. Có tác dụng trừ phong, tán hàn, thắng thấp, thông mũi. Dùng chữa cảm mạo, hen suyễn, viêm họng, viêm amiđan, ho gà, kiết lỵ, lở loét ngoài da.
Theo tài liệu chúng tôi có trong tay, ở Trung Quốc thường dùng cây cóc mẳn để chữa viêm mũi dị ứng theo một số cách như sau:
(1) Dùng cây cóc mẳn (tươi hoặc khô đều được) vò nát, đưa vào sát lỗ mũi, hít vào sẽ hắt hơi; mỗi ngày 2-3 lần (Quý Châu dân gian dược thảo).
(2) Vò nát cây cóc mẳn nhét vào lỗ mũi (Triết Giang dân gian thảo dược).
(3) Dùng cóc mẳn, tân di hoa, sắc lấy nước đặc; nhỏ mũi ngày 3-4 lần (Lâm sàng biện bệnh học).
(4) Dùng cóc mẳn, xuyên khung, tế tân, tân di hoa, thanh đại, tán thành bột mịn; đưa sát vào lỗ mũi hít ngày 3-4 lần (Lâm sàng biện bệnh học).
Một số đơn thuốc có dùng cây cóc mẳn:
(1) Chữa ho: Cóc mẳn (khô 15g hoặc 30g tươi), nước 500ml sắc còn 100ml; chia 3 lần uống trong ngày (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam).
(2) Chữa ho gà: Dùng cóc mẳn 80g, cát cánh, cam thảo, bách bộ - mỗi thứ 60g, đường trắng 250g; sắc với 1500ml nước, đun cạn còn 750ml; ngày uống 3 lần, mỗi lần 10-15ml (Thảo dược thái sắc đồ phổ).
(3) Chữa viêm amiđan: Dùng cóc mẳn 30g, gạo nếp 30g; trước hết giã cóc mẳn lấy nước cốt ngâm gạo nếp, sau đó nghiền gạo nếp thành bột nước, cho người bệnh ngậm và nuốt từ từ từng ít một (Quảng Tây dân gian thường dụng thảo dược).
(4) Chữa suyễn thở khò khè do hàn đàm nghẽn tắc: Dùng cóc mẳn nghiền lấy nước cốt hòa với rượu uống (Tần Hồ tập giản phương).
(5) Chữa lỵ amip: Dùng cóc mẳn, ô quyết (còn gọi là "ô cửu", "hành đen" - mọc hoang nhiều nơi ở nước ta, tên khoa học là Stenoloma chusanum (L.) Ching) - mỗi thứ 15g; sắc nước uống (Thảo dược thái sắc đồ phổ).
(6) Chữa mẩn ngứa (eczema): Cóc mẳn 2 phần, đậu xanh 1 phần, muối vài hạt; cả 3 thứ giã nhỏ đắp lên nơi eczema đã rửa sạch (Những cây thuốc và vị thuốc Viêt Nam).
(7) Chữa nhọt độc: Dùng cóc mẳn một nắm (khoảng 15-20g), xuyên sơn giáp 2g (thiêu tồn tính), đương quy vĩ 9g; thêm 1 bát rượu, giã vắt lấy nước uống, bã đắp lên nhọt (Tần Hồ tập giản phương).
(8) Chữa viêm da thần kinh: Dùng cóc mẳn xát vào chỗ da bị bệnh (Quý Châu dân gian dược thảo).
Lương y HƯ ĐAN
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.