Hỏi:
Vùng
quê tôi có rất nhiều cỏ tranh mọc hoang, thường chỉ cắt lá non cho
trâu, bò ăn, hoặc là dùng lá già để lợp nhà. Nhưng gần đây tôi nghe có
người nói, rễ cỏ tranh chữa được nhiều bệnh. Tôi không biết có đúng hay
không? Nếu đúng như vậy, đề nghị "Thuốc vườn nhà" chỉ dẫn giúp cách dùng
rễ cỏ tranh để chữa một số bệnh thông thường.
Lê Thị Tám, Hà Nội
Đáp:
Cỏ tranh (Imperata cylindrica Beauv., thuộc họ Lúa Poaceae) là một loại
cỏ sống dai, thân rễ khỏe chắc, cao 30-90cm, lá hẹp dài 15-30cm, rộng
3-6mm, gân lá ở giữa phát triển, ráp ở mặt trên, nhẵn ở mặt dưới, mép lá
sắc. Cụm hoa hình chùy, dài 5-20cm, màu trắng bạc, bông nhỏ phủ đầy
lông nhỏ, rất dài.
Cỏ tranh được sử dụng làm thuốc từ 2000 năm trước.
Theo Đông y:
Thân rễ cỏ tranh (bạch mao căn) có vị ngọt, tính hàn; vào 3 kinh Thủ thiếu âm
Tâm, Túc thái âm Tỳ và Túc dương minh Vị. Có tác dụng trừ phục nhiệt
(nhiệt ẩn tàng ở bên trong), tiêu ứ huyết, lợi tiểu tiện. Dùng chữa nội
nhiệt phiền khát, tiểu tiện khó khăn, đái ra máu, thổ huyết máu cam.
Các nghiên cứu lâm sàng gần đây tại Trung Quốc cho thấy:
Dùng rễ cỏ tranh trị viêm thận cấp có hiệu quả tương đối tốt, có thể
rút ngắn bệnh trình. Đối với viêm thận mạn, cũng có tác dụng lợi niệu,
tiêu thũng và làm hạ huyết áp ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, đối với
chứng báng nước (phúc thủy) do suy gan và phù do suy tim không thấy có
tác dụng tiêu thũng không thật rõ ràng. Ngoài ra, rễ cỏ tranh có tác
dụng thông tiểu tiện và tẩy độc cơ thể. Còn có thể dùng chữa sốt nóng,
khát nước, niệu huyết, thổ huyết. Liều dùng hàng ngày: 12-20g khô
(30-60g tươi). Kiêng kỵ: Người Tỳ Vị hư hàn, tiểu tiện nhiều lần không
dùng được.
Hoa cỏ tranh (bạch mao hoa) cũng có thể sử dụng làm thuốc, nhưng không thông dụng bằng thân rễ.
Theo Đông y:
Bạch mao hoa có vị ngọt, tính ấm, không độc. Có tác dụng chỉ huyết (cầm
máu), định thống (giảm đau). Dùng chữa thổ huyết (nôn ra máu), nục
huyết (đổ máu mũi), đao thương (bị đâm, chém).
Một số cách sử dụng tương đối đơn giản, có thể áp dụng trong điều kiện gia đình:
(1) Thông tiểu tiện:
Có thể dùng thứ "Chè lợi tiểu", gồm có các vị: rễ cỏ tranh 30g, râu ngô
40g, bông mã đề 25g, hoa cúc 5g; tất cả thái nhỏ, trộn đều; hàng ngày
cân 50g chè này, pha với khoảng 1 lít nước, chia ra uống trong ngày vào
lúc khát. Trẻ em 6-14 tuổi, mỗi ngày chỉ dùng 25g, pha với khoảng nửa
lít nước.
(2) Bụng ứ nước, chân tay phù nề:
Dùng rễ cỏ tranh tươi 50g, đậu đỏ (loại nhỏ hạt) 30g; 2 thứ cho vào nồi
cùng nấu với nước, đến khi đậu nhừ thì bỏ rễ cỏ tranh ra; ăn đậu và
uống hết nước (Nam dược thần hiệu).
(3) Đái dưỡng chấp:
Dùng rễ cỏ tranh tươi 250g, nước 2 lít; sắc còn khoảng 1,2 lít; thêm
chút đường, chia thành 3 phần uống trong ngày hoặc uống như uống trà;
uống liên tục trong vòng từ 5-15 ngày (1 liệu trình).
(4) Phổi nóng, hen suyễn, thở khò khè:
Dùng "Như thần thang" - phương thuốc kinh điển của Đông y, thành phần
chỉ có một vị rễ cỏ tranh tươi 50g, sắc với nước, uống lúc còn nóng vào
sau bữa ăn (Thánh huệ phương).
(5) Thổ huyết, nục huyết (nôn ra máu, đổ máu mũi): Rễ cỏ tranh tươi 40g, hoa chuối (thường gọi là "bi chuối") 40g; tất cả thái nhỏ, sắc với nước, chia nhiều lần uống trong ngày.
(6) Đái ra máu: Có thể dùng
(6.1) Rễ cỏ tranh 20g, khương thán (gừng đốt thành than) 12g; sắc kỹ với nước; khi uống có thể thêm mật ong hoặc đường.
(6.2) Rễ cỏ tranh 30g, bông mã đề 20g, lá huyết dụ 12g; sắc nước uống.
(7) Chữa nấc, hơi ợ ngược lên do nóng bên trong (nhiệt ách): Dùng bài thuốc kinh điển "Mao cát thang", gồm có: rễ cỏ tranh 12g, cát căn (sắn dây) 12g; sắc uống.
(8) Trúng độc cà độc dược: Rễ cỏ tranh tươi 100g, mía 500g; hai thứ giã nát, vắt lấy nước cốt; hòa với nước của một quả dừa, đun sôi lên uống (Nam phương chủ yếu hữu độc thực vật).
Lương y HUYÊN THẢO
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.