Nhãn
Nhãn là một
trong những cây ăn trái Á nhiệt đới có tuổi thọ cao nhất, cành lá xum
xuê, quanh năm tươi tốt. Mùa Xuân cây nhãn ra hoa, mùa Thu cho quả, đúng
theo nhịp điệu Âm Dương của thời tiết bốn mùa.
Nhãn là trái
cây rất thơm, ngon. Ngoài công dụng dùng làm thực phẩm, cùi nhãn còn có
thể sử dụng làm thuốc, với tên "long nhãn nhục". Đặc biệt hơn nữa là,
ngoài cùi nhãn (áo hạt), tất cả các bộ phận khác của cây nhãn, như hạt
nhãn, vỏ quả, rễ, cho tới hoa và lá, đều có thể sử dụng làm thuốc.
1. Long nhãn nhục - Bổ huyết ích trí:
Quả nhãn thường gọi là "long nhãn", vì có hình dạng giống mắt của con rồng ("long" = rồng, "nhãn" = mắt). Sách "Thần Nông bản thảo kinh" gọi trái nhãn là "ích trí quả", vì đó là thứ quả có tác dụng dưỡng huyết ích trí thần hiệu.
Nhãn chín vào tháng 8 âm lịch (thời xưa gọi là "quế nguyệt"), quả nhãn
hình tròn, nên còn có tên là "quế viên" ("viên" = tròn). Mùa nhãn tiếp
sau mùa vải, nên còn có tên là "lệ chi nô" ("lệ chi" = quả vải, "nô" =
kẻ theo hầu). Ngoài ra nhãn còn có những tên khác như "long mục", "viên
nhãn", "mật bì", ...
Theo sách "Trung dược thú thoại":
Thời xưa, người ta còn phân loại nhãn theo kích thước, loại to gọi là
"hổ nhãn" (mắt hổ), quả kích thước trung bình gọi là "long nhãn" (mắt
rồng), loại quả nhỏ hơn là "nhân nhãn" (mắt người), còn loại nhỏ nhất có
tên là "quỷ nhãn" (mắt quỷ). Để làm thuốc, chế long nhãn nhục, chỉ sử
dụng loại kích thước trung trung bình.
Nhãn ở Việt Nam có
nhiều loại. "Nhãn lồng" là loại có cùi dày và mọng nhất. Gọi là nhãn
lồng, vì khi quả gần chín người ta phải dùng lồng tre hoặc lồng nứa bao
kín, để ngăn cho khỏi bị chim hoặc dơi ăn. Nhãn lồng là nguyên liệu chủ
yếu để chế ra long nhãn nhục. Loại "nhãn nước" cùi có rất nhiều nước,
cũng chế được long nhãn nhưng phẩm chất kém và chế biến tốn nhiều công
sức. Còn "nhãn trơ" có cùi rất mỏng, không chế được long nhãn.
Vị thuốc "long nhãn nhục" hay "long nhãn" trong Đông y là áo hạt phơi
hay sấy khô nửa chừng của quả nhãn. Trong sách thuốc Đông y "long nhãn
nhục" được xếp trong nhóm thuốc Bổ huyết, cùng thục địa hoàng, hà thủ ô,
đương quy, bạch thược, ...
Theo Đông y:
Long nhãn nhục có vị cam, tính ôn; vào 2 kinh Tâm và Tỳ. Có tác dụng bổ
ích Tâm Tỳ, dưỡng huyết an thần; chủ trị kinh quý chính xung (trống
ngực hồi hộp tim loạn nhịp), thất miên kiện vong (mất ngủ hay quên), thực
thiểu thể quyện (kém ăn mệt mỏi), tiện huyết băng lậu (đại tiện ra
máu), phụ nữ băng lậu.
Trong sách "Bản thảo cương mục" Lý Thời Trân đã từng nhận định:
Về mặt thực phẩm, nhãn đứng sau vải, nhưng về mặt bổ dưỡng thì nhãn có
tác dụng tốt hơn, vì vải là quả có tính nhiệt, còn long nhãn có dược
tính tương đối bình hòa.
Do không có tiền để mua các loại
thuốc quý hiếm như nhân sâm, linh chi, ... thời xưa long nhãn chính là
loại thuốc bổ phổ dụng của những người nghèo. Để bổ dưỡng, sử dụng long
nhãn đơn độc cũng đã thấy có tác dụng tốt, nếu biết cách phối hợp với
những vị thuốc khác, thì tác dụng càng thêm rõ rệt ("Thuốc vườn nhà" sẽ giới thiệu rõ trong mục 3. ở dưới).
Theo kết quả nghiên cứu hiện đại:
Trong long nhãn, ngoài các chất dinh dưỡng cơ bản như carbohydrate,
protein và lipid, còn có hàm lượng khá cao các chất khoáng như canxi
(Ca), photpho (P), sắt (Fe); các sinh tố như vitamin B1, vitamin B2,
vitamin C, nicotinic acid; ngoài ra còn có cả vitamin B4, cholic acid,
tartaric acid.
Trong long nhãn sấy khô hàm lượng protein
và carbohydrate tăng lên rõ ràng, nhưng do tác động của quá trình chế
biến hàm lượng vitamin C giảm đi đáng kể. Trong các chất carbohydrate
thành phần chủ yếu là đường glucose và saccharose, do đó khi ăn long
nhãn cảm thấy có vị ngọt.
Các nghiên cứu dược lý hiện đại
cho thấy: Long nhãn có tác dụng chống lão suy vì trong cùi có
flavoprotein - một hoạt chất có tác dụng tăng cường hoạt tính của các tế
bào thần kinh não; trong cùi nhãn còn có vitamin PP, một chất có tác
dụng làm tăng độ bền và độ đàn hồi của mạch máu, giúp cho quá trình tuần
hoàn máu trở nên tốt hơn.
Như vậy, Y học cổ truyền và
Y học hiện đại đều khẳng định, long nhãn là vị thuốc có tác dụng bổ dưỡng tốt
đối với tuần hoàn và thần kinh.
2. Các bộ phận khác cũng là thuốc:
Ngoài long nhãn nhục, tất cả các bộ phận khác của cây nhãn đều có thể sử dụng làm thuốc.
- Hạt nhãn (long nhãn hạch):
Có vị chát. Có tác dụng giảm đau, cầm máu, lý khí hóa thấp. Dùng để
chữa chứng thiên trụy, tràng nhạc và một số chứng bệnh ngoài da như chốc
lở, đứt chân tay, ...
- Vỏ quả nhãn (long nhãn xác):
Có vị ngọt, tính ấm, không độc; vào kinh Phế. Có tác dụng trừ phong,
chữa chóng mặt. Dùng ngoài chữa bỏng và vết thương ngoài da.
- Lá nhãn (long nhãn diệp): Có vị nhạt, tính bình. Có tác dụng chữa cảm mạo, sốt rét, an thai.
- Hoa nhãn (long nhãn hoa): Sắc uống có thể chữa chứng bí tiểu tiện.
- Vỏ thân cây nhãn (long nhãn thụ bì): Có tác dụng trị cam tích, đinh sang (mụn nhọt).
- Rễ cây nhãn (long nhãn căn): Vị đắng, chát. Có tác dụng chữa khí hư bạch đới, trị giun chỉ (filariasis).
3. Một số cách sử dụng cụ thể:
(1) Rượu trường thọ:
- Dùng long nhãn nhục 250g, kỷ tử 100g, cúc hoa 50g, đương quy 50g, toan
táo nhân 30g; ngâm với 3 lít rượu trắng, sau 1 tháng có thể đem ra uống;
ngày uống 2 lần, mỗi lần một chén con.
- Rượu này có tác
dụng bồi bổ khí huyết, kéo dài tuổi thọ, chữa suy nhược do lao động trí
óc quá độ, dẫn đến các triệu chứng như tim đập dồn dập loạn nhịp, mất
ngủ, hay quên, mệt mỏi, không muốn ăn uống, đại tiểu tiện xuất huyết,
...
- Có thể chỉ cần dùng một vị long nhãn đem ngâm rượu uống, cũng có tác dụng bồi bổ khí huyết, an thần định trí.
(2) Chữa thiếu máu:
• Cháo long nhãn hạt sen:
Long nhãn 10g, hạt sen 10g, gạo tẻ 50g; nấu cháo ăn hàng ngày, liên tục
trong 10 ngày (1 liệu trình), nghỉ 3 - 5 hôm rồi lại ăn tiếp.
• Canh long nhãn nấu với lạc: Long nhãn 10g, lạc nhân (liền cả vỏ lụa) 15g; nấu canh ăn hoặc sắc uống thay nước trà, mỗi ngày 1 tễ (1 thang).
• Canh long nhãn gan lợn:
Long nhãn 15g, đại táo (táo tàu) 10g, gan lợn 100g; gan lợn thái thành
lát, nấu với nước khoảng 30 phút, sau đó cho long nhãn và táo vào đun
tiếp khoảng 15 phút, thêm mắm muối vào cho hợp khẩu vị là được, mỗi ngày một tễ (1 thang).
• Long nhãn dâu tằm: Long nhãn 15g, quả dâu chín 20g; sắc kỹ với nước, thêm chút mật ong vào uống, mỗi ngày một tễ (1 thang).
(3) Nam giới vô sinh:
Long nhãn 100g, tinh hoàn gà 2 đôi, rượu trắng 500 ml; tinh hoàn gà hấp
chín, bổ ra, để cho róc nước, cùng với long nhãn ngâm rượu 60 ngày rồi
mang ra uống; ngày uống 2 lần, mỗi lần khoảng 15-20 ml.
(4) Nữ giới vô sinh:
Long nhãn 15g, trứng chim bồ câu 5 quả, kỷ tử 10g, đường trắng lượng
vừa đủ; trứng chim bồ câu luộc chín, bóc bỏ vỏ, cùng long nhãn, kỷ tử,
đường cho vào một cái bát hấp chín, dùng làm bữa điểm tâm hàng ngày.
(5) Trẻ nhỏ nhiều mồ hôi (tự hãn), mồ hôi trộm (đạo hãn): Long nhãn 30g, hồng táo 15g; sắc nước uống hàng ngày, muốn tận dụng có thể ăn cả cái.
Lương y HUYÊN THẢO
(Bài đã đăng trên Tạp chí Cây Thuốc Quý - số Tết Nhâm Thìn)
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.