XÍCH THƯỢC - 赤芍
Thảo thược dược - Paeonia obovata
Xích thược Radix Paeonae rubrae là rễ phơi hay sấy khô của 3 loài thược dược:
1. Thược dược (Paeonia lactiflora Pall.) đã mô tả ở vị thuốc Bạch thược (xem vị Bạch thược). Nhưng là loài thược dược mọc hoang, củ nhỏ bé hơn dùng chế thành xích thược.
2. Thảo thược dược (Paeonia obovata Maxim.). Cây này cũng mọc hoang, rễ phát triển thành củ có vỏ màu nâu đỏ.
3. Xuyên xích thược (Paeonia veichii Lynch).
Tất cả xích thược đều do cây mọc hoang cung cấp.
Vào các tháng 3-5 hay các tháng 5-10 đào về, trừ bỏ thân rễ và rễ nhỏ, chia thành từng rễ to nhỏ riêng biệt, rửa sạch đất cát; phơi khô là được.
A. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Như thược dược: Có tinh bột, tanin, nhựa, chất nhầy, chất đường, sắc tố và axit benzoic. Tỷ lệ axit benzoic trong xích thược thấp hơn bạch thược (0,92%).
B. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Như thược dược, nhưng trong sách cổ người ta cho rằng: Bạch thược thì bổ huyết, đỏ thì hành huyết. Vì vậy bạch thược bổ, xích thược tả, bạch thược thu liễm, còn xích thược thì tán (theo Mậu Hy Ung).
Một tác giả khác là Hoàng Cung Tú nói: "Xích thược và bạch thược chủ trị giống nhau, nhưng bạch thược có sức liễm âm, ích huyết; xích thược có năng lực tán tà hành huyết".
Đơn thuốc có xích thược:
1. Chữa chảy máu cam: Xích thược tán nhỏ; mỗi lần uống 6-8g.
2. Chữa băng huyết bạch đới: Xích thược, hương phụ - 2 vị bằng nhau; tán nhỏ, mỗi lần uống 6-8g; ngày uống 2 lần, uống trong 4-5 ngày.
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.