Hỏi:
Tôi năm nay đã ngoài 60, bị thiểu năng tuần hoàn não, được bác sĩ kê cho những loại thuốc tân dược, nghe nói được chế từ lá cây "ngân hạnh". Tôi rất muốn tìm hiểu thêm về thứ cây này, vì vậy nếu có thể được đề nghị "Thuốc vườn nhà" giới thiệu cho biết: Cây "ngân hạnh" hình dạng ra sao, thường mọc ở đâu, ngoài tác dụng tăng tuần hoàn máu còn có những tác dụng gì khác?
Hoàng Tích Chung, TP. Huế
Đáp:
Ngân hạnh vốn là một vị thuốc của Đông y nhưng hiện nay được sử dụng trong Tây y nhiều hơn. Với người phương Tây, "Ginko bibola" đã trở nên hết sức quen thuộc vì mỗi tháng có hàng triệu bệnh nhân được các bác sĩ kê những đơn thuốc chế từ ngân hạnh. Có một thời ngân hạnh đã tạo nên "cơn sốt" ở các nước Âu Mỹ nhờ tác dụng kỳ diệu đối với bệnh tim mạch - căn bệnh của xã hội hiện đại.
Cây ngân hạnh còn có tên là "công tôn thụ", "áp cước thụ", "áp cước tử", "phi nga thụ", "phi nga tử", "bạch quả", "hoạt hoá thạch", tên khoa học là Ginkgo biloda, thuộc họ bạch quả Ginkgoaceae.
Ngân hạnh là cây to, cao 20-30 mét, cành dài, gần như mọc vòng. Trên cành có những nhánh ngắn, mang lá cuống dài, phiến lá hình quạt, mép phía trên tròn, giữa hơi lõm chia phiến lá thành hai thùy tựa như chân con vịt nên có tên là "áp cước thụ" (cây chân vịt). Hạt (tử) dùng làm thuốc nên còn gọi là "áp cước tử". Hoa nở vào tháng 4-5. Hoa đực có cuống nhụy ngắn, mọc thành từng bó 4-6 bông, rủ xuống. Hoa cái có cuống dài, noãn lộ ra ngoài. Quả chín vào tháng 10. Quả ngân hạnh tựa như quả mơ nhưng bên ngoài có lớp phấn trắng như bạc phủ kín, cho nên mới gọi là "ngân hạnh" (trái mơ trắng như bạc) hoặc là "bạch quả" (quả màu trắng).
Thực ra dưới góc độ thực vật học gọi là "ngân hạnh" hay "bạch quả" đều không chính xác. Quả ngân hạnh nhìn bề ngoài tựa như quả mơ nhưng thực ra lại khác hoàn toàn. Vì "bạch quả" thực chất không phải là "quả". Khi ăn quả mơ, ta chỉ ăn phần "thịt" và bỏ phần "hạt", còn "bạch quả" hoàn toàn là "hạt". Cho nên ăn bạch quả thực chất là ăn "hạt", vì chỉ có "hạt" mà không có "thịt quả". Mơ thuộc loại thực vât "quả đóng" (bế tử), còn ngân hạnh thuộc loài thực vật "quả trần" (khỏa tử), tương tự như tùng, thông, ... Trong loài quả trần, bộ phận sinh sản cái (noãn) và hạt lộ ngay ra ngoài, không đóng kín như loài quả đóng. Hạt ngân hạnh trông rất giống quả hạch như đào, mơ, mận, bên ngoài cũng có một lớp "thịt" nhưng thực ra đó là lớp vỏ ngoài của hạt.
Ban đầu ngân hạnh là cây đặc sản của Trung Quốc. Về sau mới di thực tới các nước khác như Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật, ... Điều đặc biệt là tên khoa học của ngân hạnh là "Ginkgo biloda" lại là phiên âm La tinh từ tiếng Nhật.
Tác dụng chữa bệnh của ngân hạnh được ghi chép sớm nhất "Nhật dụng bản thảo" của Ngô Thụy (một thầy thuốc Trung Hoa) cách đây hơn 6 thể kỷ. Hiện tại ở các nước Âu Mỹ, cao lá ngân hạnh thường được sử dụng dưới dạng thuốc ống hay viên nang với mục đích dự phòng và phục hồi đột quỵ, phòng ngừa nghẽn động mạch vành tim, phòng suy giảm tuần hoàn não, chữa giãn tĩnh mạch và viêm nghẽn tĩnh mạch, ...
Đông y cổ truyền thường dùng quả, ít khi dùng lá. Theo Đông y, bạch quả có tính bình, vị đắng ngọt. Có tác dụng liễm phế, định suyễn, chỉ di niệu, bạch đới, ... Dùng chữa các chứng ho, hen, viêm khí quản mạn tính, lao phổi, đi tiểu nhiều lần, đái dầm, đái són, tiểu tiện không tự chủ, di tinh, bạch đới, ... Dùng bên ngoài để trị lở ngứa. Thời xưa khi còn chế độ khoa cử cũ, trước khi đi thi sĩ tử thường luộc một số bạch quả ăn để ngăn chặn tiểu tiện khi vào phòng thi.
Một số bài thuốc Đông y cổ truyền, có dùng ngân hạnh:
(1) Chữa cảm lạnh, ho có đờm, thở suyễn, cổ có tiếng khò khè: Bạch quả bọc trong lá ngải cứu nướng chín; ngày ăn 3-4 quả.
(2) Bạch quả định suyễn thang: Bạch quả 21 quả sao vàng, ma hoàng 12g, tô tử 8g; khoản đông hoa, chế bán hạ, tang bạch bì, mỗi vị đều 8g, tẩm mật sao; hạnh nhân bỏ vỏ và đầu nhọn, hoàng cầm sao qua, đều 6g, cam thảo 4g; nước 600ml, sắc 3 lần, gạn lấy nước, chia nhiều lần uống trong ngày.
(3) Chữa đi đái luôn, tiểu tiện quá nhiều, nước tiểu trắng đục: Bạch quả 10 quả, 5 để sống, 5 nướng chín; gom cả hai thứ vào ăn trong ngày.
(4) Bài thuốc trị mộng tinh: Bạch quả 3-5 quả, đun với rượu; uống liền 4-5 ngày.
(5) Bài thuốc trị đới hạ: Bạch quả, khiếm thực, sơn dược, xa tiền tử - mỗi vị 9 gam; sắc uống 2 lần trong ngày.
(6) Trị sơn ăn gây sưng, ngứa: Lá ngân hạnh và lá kim ngân - 2 thứ bằng nhau; đun nước rửa.
Lương y HƯ ĐAN
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.