Bèo cái
Bệnh mày đay (urticaria) là một bệnh dị ứng ngoài da, thường phát ra ở những người có cơ địa dị ứng; trẻ nhỏ và người lớn đều có thể bị mắc. Dân gian thường gọi là "mẩn tịt", "ma tịt", "phong lạnh", hoặc "ma tịt đốt", ...
Bệnh có thể do nội nhân (nhân tố bên trong) hoặc ngoại nhân (nhân tố bên ngoài) gây ra. Nội nhân chủ yếu là tinh thần căng thẳng, cơ thể mệt mỏi do làm việc quá sức, sức miễn dịch giảm, rối loạn nội tiết, ... Ngoại nhân bao gồm những "dị ứng nguyên" khác nhau, như bụi, phấn hoa, côn trùng, thức ăn lạ, thuốc, hóa chất, ...
Triệu chứng điển hình của bệnh là trên da đột nhiên xuất hiện những nốt chẩn (nốt mẩn), gồ cao hơn mặt da, ranh giới rõ ràng, màu hồng nhạt, ở giữa màu nhạt hơn, thành vết, thành đám, hình tròn hoặc vằn vèo, kích thước và số lượng thay đổi tùy lúc, vị trí hạn chế ở từng vùng hoặc lan khắp người. Càng gãi càng mẩn đỏ và càng ngứa hơn.
Trường hợp những nốt mẩn tịt chỉ xuất hiện trong vài phút, rồi lặn, không để lại dấu vết, đó là mày đay cấp tính nhẹ. Với trường hợp này, có thể chỉ cần nằm nghỉ ở chỗ thoáng, uống nhiều nước là được. Nhưng cần tránh gãi mạnh, vì càng làm ngứa tăng thêm, có thể gây sây xước, chảy máu, nhiễm khuẩn, thậm chí bội nhiễm.
Trong thể mày đay cấp tính, khi có kèm theo những triệu chứng toàn thân như hắt hơi, chảy nước mũi, sốt, đau các khớp xương, ... cần tiến hành điều trị kịp thời. Có những trường hợp dị ứng nặng, gây sưng tấy ở lưỡi và môi, bụng đau quặn, nôn mửa, khó thở do niêm mạc họng bị phù thũng, ngạt thở do co thắt phế quản, ... cần đưa ngay tới bệnh viện cấp cứu.
Khi mày đay kéo dài trên 3 tháng, không kể nhiều hay ít, có khi ngắt quãng nhiều ngày, là đã sang giai đoạn mạn tính. Trong thể mãn tính, bệnh có thể giảm nhẹ hoặc nặng lên tùy theo điều kiện thời tiết và môi trường.
Bệnh mày đay thuộc phạm vi các chứng "ẩn chẩn" và "phong chẩn khối" của Đông y học.
Theo Đông y: Nguyên nhân gây nên bệnh bao gồm nội nhân và ngoại nhân. Nội nhân chủ yếu do cơ thể suy yếu, Âm Dương khí huyết mất cân bằng, chức năng tạng phủ bị rối loạn, dẫn tới tình trạng "Âm hư huyết táo" mà sinh ra bệnh. Ngoại nhân do "phong hàn" hoặc "phong nhiệt", nhân lúc cơ thể bị suy yếu, xâm nhập vào cơ thể mà gây nên bệnh.
Muốn dùng trà thuốc chữa trị có hiệu quả, cần căn cứ vào những biểu hiện cụ thể (triệu chứng) để phân biệt loại hình bệnh (thể bệnh), trên cơ sở đó mà lựa chọn phép chữa, bài thuốc thích hợp, theo nguyên tắc "Biện chứng luận trị" của Đông y như sau:
1. Thể "Phong nhiệt":
- Phép chữa: Trừ phong, thanh nhiệt, chống ngứa.
- Tùy theo điều kiện, có thể sử dụng một số loại trà thuốc sau:
(1) Trà thuốc 1: Tang diệp (lá dâu tằm) 10g, vỏ bí đao 20g, mật ong lượng thích hợp; lá dâu, vỏ bí đao sau khi rửa sạch cho vào nồi, thêm lượng nước thích hợp, nấu sôi khoảng 20 phút; chắt lấy nước, hòa mật ong vào; chia ra uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(2) Trà thuốc 2: Dùng kim ngân hoa 12g, vỏ núc nác 12g, lá đơn đỏ (đơn mặt trời) 6g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(3) Trà thuốc 3: Dùng kim ngân hoa 12g, phù bình (bèo cái) 6g; sắc lấy nước uống trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(4) Trà thuốc 4: Dùng lá đơn răng cưa 20g, lá đơn đỏ 20g, đơn tướng quân (sao qua) 20g, củ khúc khắc 20g, cam thảo đất 20g (hoặc cam thảo bắc 8g), kim ngân hoa 20g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(5) Trà thuốc 5: Tang diệp (lá dâu tằm) 10g, cúc hoa 10g, kim ngân hoa 10g, trúc diệp (lá tre hoặc lá trúc) 5g, bạc hà 4g, đan bì 6g, xích thược 10g, cam thảo 5g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày. Dùng trong trường hợp bệnh phát nặng.
2. Thể "Phong hàn":
- Biểu hiện: Nốt chẩn sắc trắng, ngứa, gặp gió lạnh thì phát nặng, thời tiết ấm thì bệnh giảm nhẹ. Chất lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng; mạch phù (nổi trên mặt da). Bệnh thường phát sinh trong mùa Thu, Đông.
- Tùy theo điều kiện, có thể sử dụng một số loại trà thuốc sau:
(2) Trà thuốc 2: Dùng quế chi 6g, kinh giới 10g, tía tô 10g, hành 15g (để cả củ), gừng tươi 8g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(3) Trà thuốc 3: Dùng kinh giới 6g, tô diệp 8g, xuyên khung 6g, quế chi 6g, bạch thược 6g, cam thảo 5g, gừng tươi 5g, đại táo 5 trái; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày. Dùng cho trường hợp bệnh phát nặng.
3. Thể "Huyết hư phong táo" (thể mạn tính):
- Biểu hiện: Bệnh kéo dài lâu ngày, thỉnh thoảng lại phát tác, buổi chiều và buổi tối phát nặng hơn. Kèm theo tâm phiền, dễ cắu giận, miệng khô, lòng bàn chân bàn tay nóng. Chất lưỡi đỏ khô, rêu lưỡi ít; mạch tế (nhỏ yếu). Bệnh có thể phát sinh trong cả 4 mùa.
- Phép chữa: Dưỡng huyết, nhuận táo, trừ phong, chống ngứa.
- Tùy theo điều kiện, có thể sử dụng một số loại trà thuốc sau:
(1) Trà thuốc 1: Đương quy 10g, bạch thược 10g, kinh giới 6g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(2) Trà thuốc 2: Dùng thục địa 12g, hạn liên thảo (cỏ nhọ nồi) 10g, nhẫn đông đằng (dây kim ngân) 10g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày.
(3) Trà thuốc 3: Sinh địa 15g, bạch thược 10g, đan sâm 10g, đương quy 6g, xuyên khung 6g, huyền sâm 10g, hà thủ ô chế 10g, đan bì 10g, thuyền y 6g, cam thảo 6g; sắc nước uống thay trà trong ngày; liên tục 5-7 ngày. Dùng trong thể bệnh nặng, khí huyết suy nhược, bệnh tái phát nhiều lần.
4. Thuốc bôi ngoài:
(1) Bài thuốc 1: Trường hợp bệnh phát nhẹ, chỉ cần dùng cám gạo rang nóng, bọc vào miếng gạc hoặc vải màn, xoa nhẹ lên những chỗ da bị mẩn tịt. Có tác dụng chống ngứa và bảo vệ dạ.
(2) Bài thuốc 2: Dùng lá khế tươi (nhiều ít tùy theo diện tích da bị mẩn tịt) vò nát, lấy vải màn hoặc gạc bọc lại, xát nhẹ vào chỗ da bị mẩn tịt.
(3) Bài thuốc 3: Lấy 1 thìa giấm thanh hòa vào 1 chén con nước đun sôi để nguội, dùng bông thấm nước giấm bôi vào chỗ da bị mẩn tịt. Từ lần bôi thứ 2 chỉ dùng giấm bôi, không dùng nước nữa.
Lương y HUYÊN THẢO
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.