Hỏi:
Tôi bị cao mỡ máu đã nhiều năm. Gần đây, có người nói dùng cây mã đề nước chữa bệnh này rất hay. Đề nghị "Thuốc vườn nhà" cho biết có đúng hay không? Cây có hình dạng như thế nào? Thường mọc ở đâu? Cách sử dụng như thế nào? Cây còn chữa được những bệnh gì khác?
Trần Như Kim, Thái Bình
Đáp:
Trạch tả
Cây "mã đề nước" trong Đông y gọi là "trạch tả", tên khoa học là Alisma plantago-aquatica L. var. orientalis Samuelsson, thuộc họ Trạch tả (Alismataceae). Cây trạch tả có hình dạng gần giống cây mã đề nhưng mọc ở dưới nước, nên dân gian mới thường gọi là "mã đề nước".
Cây trạch tả là loài cây thủy sinh, sống ở trong các ruộng nước, ao, hồ, ... Phần thân rễ của cây ngập trong bùn, toàn bộ phần thân lá mọc vượt khỏi mặt nước. Thân rễ hình cầu hay hình con quay, nạc, màu trắng. Lá có cuống dài, mọc ở gốc, phiến lá hình trứng thuôn hay lưỡi mác, phía cuống hơi hẹp lại hình tim. Chiều dài của lá phụ thuộc vào mức độ ngập nước của cây. Hoa họp thành tán có cuống dài đều, lưỡng tính, có 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa trắng hay hơi hồng, nhị nhiều lá noãn rời nhau, xếp xoắn ốc. Quả là một đa bế quả, có đài tồn tại.
Cây này thường mọc hoang và được trồng dùng để làm thuốc ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta.
Để làm thuốc, người ta hái lấy rễ củ, rửa sạch, cạo hết rễ nhỏ, rồi phơi hoặc sấy khô. Tác dụng làm giảm mỡ máu của rễ củ trạch tả mới được phát hiện thời gian gần đây. Thời trước, rễ củ thường được dùng làm thuốc chữa tiểu tiện bất lợi, thủy thũng, viêm thận, bí tiểu tiện, đái ra máu, đái dắt, đái buốt, bụng trướng đầy, ỉa chảy, kiết lỵ, bạch đới, hoàng đản, đau lưng, di tinh. Cũng có thể dùng làm thuốc chữa thiếu sữa cho phụ nữ.
Ngoài ra, lá trạch tả có thể dùng ngoài, để chữa bệnh ngoài da; hạt trạch tả cũng có tác dụng lợi tiểu như hạt mã đề. Thời trước, đồng bào dân tộc Thái ở Mộc Châu thường lấy lá và nụ hoa trạch tả về nấu canh ăn như rau.
Để chữa chứng bệnh cao mỡ máu, có thể sử dụng mã đề nước (trạch tả) theo phương pháp như sau: Dùng trạch tả 8g, hà thủ ô 12g, hoàng tinh 10g, sơn tra 6g, thảo quyết minh 6g; sắc nước uống thay trà trong ngày; uống theo từng đợt 10-15 ngày (1 liệu trình), giữa các liệu trình ngừng dùng thuốc 5-7 ngày.
Ngoài ra, còn có thể sử dụng trạch tả để chữa một số chứng bệnh khác thường gặp như sau:
(1) Chữa thủy thũng (có thể áp dụng 1 trong 3 cách sau):
- Cách 1: Dùng trạch tả 40g, bạch truật 40g; tán nhỏ, mỗi lần uống 10-12g; dùng nước sắc phục linh để chiêu thuốc.
- Cách 2: Dùng trạch tả 12g, ý dĩ sao 20g, tỳ giải 10g; sắc lấy nước hoặc tán bột uống trong ngày.
- Cách 3: Dùng trạch tả 6g, phục linh 6g, bạch truật 4g, cam thảo 2g, quế chi 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml; chia 3 lần uống trong ngày.
(2) Chữa béo phì đơn thuần: Trạch tả 12g, phan tả diệp 1,5g, sơn tra 12g, thảo quyết minh 12g; tất cả thái nhỏ, hãm nước sôi, chia 2 lần uống trong này; dùng theo từng đợt 20-30 ngày.
(3) Chữa cao huyết áp: Dùng trạch tả, ích mẫu, xa tiền tử, hạ khô thảo, thảo quyết minh - mỗi vị 6-10g; sắc nước uống thay trà trong ngày.
(4) Chữa gan nhiễm mỡ: Dùng trạch tả 10g, hà thủ ô 15g, thảo quyết minh 10g, cốt khí củ 10g, sơn tra 8g; sắc nước uống trong ngày.
Lương y HUYÊN THẢO
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.